Theo Tổ chức Du lịch Thế giới ( World Tourist Organization ), một tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc, Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm cư, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích ngơi nghỉ, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tiếp nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
Du lịch phát triển mạnh về nhiều mặt đặc biệt làm tắm biển. Tỉ dụ: Bờ biển Florida, hòn đảo Hawaii, bờ biển California. Du lịch trượt tuyết, leo núi và thác nước như Colorado, ven dãy núi Coocdie... Du lịch trên thuyền lớn cũng khá phát triển. Khách du lịch về đây từ khắp nơi trên thế giới khá đông.Du lịch Nha Trang cũng là một sự lựa chọn du lịch thú vị cho những vị vị khách thích biển.
Những diêm dân làm ra hạt muối Cồn Cù. Nghề làm muối là một nghề trong danh mục 7 ngành kinh tế biển, bởi muối ăn là nguồn tài nguyên vô cùng lớn lao trong nước biển. Các nhà khoa học đã tính, trung bình cứ mỗi mét khối nước biển có khoảng 3,5kg muối ăn hòa tan. Họ tính, nếu đem tất thảy muối hòa tan trong nước biển trải đều lên bề mặt các lục địa thì sẽ có lớp muối dày từ 180- 200m. Nghề làm muối từ nước biển là nghề truyền thống từ lâu đời của cư dân thuộc nhiều nhà nước có biển trên thế giới. Nghề làm muối ở làng ven biển tỉnh Trà Vinh được bắt đầu vào năm 1946. Sau cách mệnh Tháng Tám năm 1945, đến năm 1946, giặc Pháp đã xâm lấn đóng đồn gần hết tỉnh Trà Vinh, duy chỉ còn có mỗi vùng đất rừng ven biển thuộc huyện Duyên Hải ngày nay là chưa có đồn bót địch. Trước tình hình khó khăn đó, Tỉnh ủy Trà Vinh chủ trương di chuyển căn cứ Tỉnh ủy Trà Vinh từ TX Trà Vinh về bám trụ trong các khu rừng vùng ven biển tỉnh Trà Vinh để lãnh đạo cuộc kháng chiếndu lịch thái lanchống Pháp của quần chúng tỉnh Trà Vinh. Các vùng ven biển tỉnh Trà Vinh lúc đó dân cư rất thưa thớt, rừng rú thì rậm rì. Tiện lợi cho việc xây dựng căn cứ, nhưng lại rất khó khăn về mặt kinh tế. Làm thế nào để có cơ sở kinh tế, bảo đảm nhu cầu tối thiểu về đời sống cho bộ máy lãnh đạo của một tỉnh trên một vùng cứ mà điều kiện kinh tế của dân chúng địa phương còn vô cùng nghèo nàn? Đây là một vấn đề nan giải. Để khắc phục khó khăn của thời kỳ chỉ có “nóp với giáo, mang trên vai”, còn “thuốc súng kém”(*) ấy, Tỉnh ủy chủ trương thành lập Ban sinh sản và mở cơ sở làm ruộng muối tại ấp Cồn Cù (xã Dân Thành). Lúc đó, vùng đất này còn thuộc huyện Cầu Ngang. Đến tháng 6/1951, huyện Duyên Hải mới được thành lập. Ban sản xuất của Tỉnh ủy Trà Vinh lúc mới ra đời có 5 người do ông Phan Văn Lam (tức Bảy Lam) làm Trưởng ban. Sau này, do sự sốt sắng của mình, ông Bảy Lam thường hay viện trợ Đoàn văn công Ánh Hồng của tỉnh và Đoàn văn công Dũng Tiến của huyện Duyên Hải đi phục vụ đồng bào, quân nhân địa phương, nên anh, em gọi mãi nên danh là ông Bảy Bầu hoặc ông Bảy Bầu Lam (Bầu là tên chỉ chủ gánh hát- bầu gánh). Ông Bảy Bầu Lam đã từ trần tại quê nhà ấp Giồng Giếng (xã Dân Thành, huyện Duyên Hải). Ban sản xuất được Tỉnh ủy cắt cử mở cơ sở làm muối để Tỉnh ủy có cơ sở bám trụ, lãnh đạo quần chúng khángdu lịch thái lanchiến chống Pháp. Nhưng lúc ấy, ở vùng này chưa ai làm ruộng muối và trong Ban sản xuất của Tỉnh ủy cũng chưa có ai biết làm muối bao giờ. Lúc này, ở ấp Cồn Ông (xã Dân Thành) có ông Phan Văn Hùng biết cào đất mặt có đóng muối về nấu muối bọt để dùng trong gia đình. Ông Phan Văn Hùng được ông Bảy Lam mời vào Ban sinh sản. Vụ muối đầu tiên, Ban sinh sản mở ra khoảng 10 công (1ha) ruộng muối. Do khu vực đất ấp Cồn Cù lúc đó trũng, nên trong đất có phèn. Thu hoạch vụ muối trước hết năng suất thấp. Chất lượng muối xấu, có màu nâu của phèn. Các tay thợ làm muối trong Ban sinh sản của Tỉnh ủy Trà Vinh chở muối đi bán khắp nơi, phải cực nhọc lắm mới tiêu thụ được. Vụ muối trước hết bán hết, mua về bao lăm thứ mà thứ nào cũng quý, này gạo, đường, thuốc trị bệnh, văn phòng phẩm cho cơ quan Tỉnh ủy. Các ông trong Ban sản xuất Tỉnh ủy Trà Vinh mừng vô thiên lủng. Thấy việc làm muối có kết quả, Tỉnh ủy Trà Vinh xin điều động một Trung đoàn quân nhân Quân khu 8 đến Cồn Cù phá hoang đất rừng làm ruộng muối. Thấy vậy, dân chúng địa phương ở Cồn Cù cũng phá hoang đất rừng làm ruộng muối. Quân nhân và quần chúng. # Cùng nhau đào 5 con kinh được đặt tên theo trật tự như kinh Dê Rô, kinh Một, kinh Hai, kinh Ba,... Dẫn nước sông vào rừng xổ phèn và đưa nước mặn vào đồng làm muối. Ông Bảy Lam đượcdu lịch thái lanTỉnh ủy cắt cử làm Chủ Sở muối Cồn Cù - một chức phận khá quan yếu thời đó. Muối Cồn Cù từ đó đã có sản phẩm với khối lượng hàng hóa lớn. Ban sản xuất không phải chở muối đi bán nữa mà ghe buôn ở các nơi tìm đến neo đậu chờ mua. Chẳng những thế mà dân nhiều nơi còn đổ xô về Cồn Cù làm nghề ruộng muối. Dân cư ở Cồn Cù từ thưa thớt, dần dần mỗi càng ngày càng đông thêm. Ông Trần Văn Kiếu- nguyên Chủ tịch UBND huyện Duyên Hải nhớ lại: Dân Cồn Cù hồi đó có lúc lên đến 10.000 người. Người đông, họ làm thêm nhiều nghề. Người làm nghề muối. Người làm nghề cá. Kẻ đi buôn hàng công nghệ phẩm, vải, thực phẩm... Tấp nập. Họ nhóm chợ suốt cả sớm hôm. Và, họ gọi Cồn Cù thời Tây cai trị đó là Sài Gòn mới. Ruộng muối Cồn Cù đến năm 1954 có diện tích khoảng 6.000 công (600ha). Từ Cồn Cù, nghề làm muối sau đó được mở mang sang các ấp khác như ấp Mù U, Láng Cháu; xã Dân Thành, xã Đông Hải có nghề làm muối ở ấp Động Cao; xã Long Toàn có nghề làm muối ở ấp Bào Sen; xã Long Khánh có nghề làm muối ở ấp Đình Cũ; xã Long Hữu có nghề làm muối ở ấp Đon. Tuy nhiều nơi ở làng ven biển Trà Vinh có nghề làm muối, nhưng muối Trà Vinh có chở đi đâu bán, vẫn cứ mang danh muối Cồn Cù. Diện tích đồng muối ở làng ven biển Trà Vinh có lúc lên đến gần 800ha. Muối Chẳng những rất cần thiết cho đời sống và sản xuất mà muối còn lặng lẽ đi vào thơ ca. Lúc còn nằm nôi, chúng ta từng nghe à ơi câu hát: “Cá không ăn muối cá ươn/ Con cãi cha mẹ trăm đường con hư” hoặc “Tay bưng dĩa muối chấm gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau...” Và những cuộc hội ngộ bỗng nhiên trêndu lịch thái lanđồng muối năm nào đến hôm nay vẫn còn xao xuyến con tim người thực tế... “... Tháng Ba nắng cháy da người Trên đồng muối, em vẫn ngồi quay xa Nước theo cánh quạt chảy qua Bọt tung cuồn cuộn như là mây bay Nắng tuôn lên mặt nước này Kết thành hạt muối lây lất xuống đồng… Hỏi em muối có mặn không… Em cười buông giọng trong trong bên đường Tình người vẫn đượm đà hơn Anh đi nhớ ghé quê cồn của em... Ven rừng ríu rít tiếng chim Biển trưa sóng vỗ triều lên gọi mùa Trông trời khoan hãy đổ mưa Để cho muối kịp vào mùa đông khuôn Da em dù có đen hơn miễn hạt muối ngày thêm nặng đồng Ngắm đồng muối trắng minh mông Thương em gội nắng mấy lần bỏng da Làm nên hạt muối trắng ngà Để ai cũng được mặn mà tình em!” (Trích thơ “Gặp em trên đồng muối”- Trần Điền) Hơn 60 năm biến đổidu lịch thái lanthăng trầm với biết bao huyền thoại, muối Cồn Cù đã từng chắp cánh cho nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh trong và ngoài nước nên danh. Bây chừ, một phần khá lớn diện tích đồng muối Cồn Cù ở làng ven biển Trà Vinh rồi ra phải nhường chỗ cho công trình kinh đào Trà Vinh để mở đường cho miền Tây Nam Bộ ra biển Đông. Cũng như các làng nghề làm muối ở Việt Nam, nghề làm muối Cồn Cù ở làng ven biển Trà Vinh đang đứng trước sự chọn lọc đầy trăn trở. Do giá cả còn khá bấp bênh nên nghề muối chưa làm cho người làm muối giàu lên. Nhưng dẫu sao, nó cũng gắn bó với một bộ phận khá đông người dân làng ven biển Trà Vinh suốt hơn 60 năm cơ cực. Có còn không nghề làm muối ở làng ven biển Trà Vinh? Câu hỏi còn chưa có lời đáp trước cơn lốc của thành phố hóa và cơ chế thị trường. Nhưng người làm muối ở làng ven biển Trà Vinh vẫn muốn mãi được dâng hiến cho đời, vị mặn! Muối là tên gọi theo dân dã. Muối ăn có tên và công thức hóa học là NaCl (Clorua natri). Do có chứa nhiều chất khoáng nên muối rất tốt cho sức khỏe nếu như chúng ta ăn với mức không quá 3- 4g muối mỗi ngày. Muối ăn không thể thiếu trong đời sống mỗi con người và rất cần cho nhiều ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất... Nguồn: Báo Vĩnh Long
0 comments:
Post a Comment