Cầu Thê Húc – Dải lụa đào vắt qua làn nước xanh

Monday, September 2, 2013 0 comments
Ngược dòng thời gian – tìm về lịch sử
Nếu bạn có dịp dạo một quanh quéo hồ Gươm hãy thử ngắm nhìn cây cầu qua nhiều giác độ khác nhau. Ở góc trực diện, bạn có thể thấy nổi trội lên cây cầu son đỏ chót như một dải lụa đào mềm mại vắt mình in bóng lên mặt hồ Lục Thủy xanh biếc. Chuyển qua góc nhìn khác, chúng ta lại thấy cây cầu son e lệ lấp mình sau lơ thơ tơ liễu. Và khi bước chân lên mặt cầu, thì bạn sẽ khám phá ra những điều lý thú khác.


Cây cầu nhỏ sẽ đưa chân du khách tách mình khỏi phố xá rầm rĩ vào một thế giới lặng yên của hòn đảo Ngọc, để đắm mình trong không gian kiến trúc của Đền Ngọc Sơn – Lầu Đắc Nguyệt – Đình Chấn Ba.
Vậy nhưng ít người biết rõ về lịch sử cụm thắng cảnh Tháp Bút, Đài Nghiên, Cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn. Xa xưa truyền rằng: ở gò đất trong hồ đã có các tiên nga về đây múa hát. Đảo Ngọc Sơn khi xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi). Khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên là Ngọc Tượng, đến đời Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Một ngôi đền được dựng lên trên đảo Ngọc Sơn để thờ những binh sỹ đã hy sinh cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Lâu ngày, ngôi đền đó bị sụp đổ, đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 – 1739), chúa Trịnh Giang đã cho xây dựng nơi đây thành cung Khánh Thụy, làm chỗ vui chơi. Nhưng đến cuối đời Lê, Lê Chiêu Thống đã cho đốt trụi cung nghỉ mát đầy diễm lệ này. Trước cảnh nên xưa thành hoang phế, phải chăng Bà huyện Thanh đã thốt lên:


Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn chau mặt với tang hải.
Trên nền đất cũ, một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã đứng ra dựng một ngôi chùa nhỏ gọi là Chùa Ngọc Sơn, thờ Phật. Năm Thiệu Trị thứ ba (1843) chùa lại chuyển thành đền thờ Tam Thánh hay còn gọi là Đền Ngọc Sơn (thờ Văn Xương tướng quân, thờ quan đế Vân Trường và thờ tướng quân Trần Hưng Đạo). Đường vào đảo Ngọc lúc này chỉ là chiếc cầu tre vắt vẻo.
Nguồn cội tên gọi “cầu đón ánh sáng ban mai”
Đến năm Tự Đức thứ mười tám (năm 1865), Phương Đình - Nguyễn Văn Siêu đứng ra vận động sang sửa lại đền. Đền mới được sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh. Phía Nam xây dựng đình Chấn Ba (hay còn gọi là đình chắn sóng) với ngụ ý là rường cột đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hóa lúc bấy giờ. Trên núi Ngọc Bội, ông cho xây dựng một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông (Tháp Bút), thân tháp khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” (viết lên trời xanh). Tiếp đến là cửa cuốn gọi là đài Nghiên, trên có đặt một nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Nối từ bờ vào đảo Ngọc, Phương Đình - Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng một cây cầu. Mỗi buổi sớm mai, những tia rẻ quạt của ánh bình minh quét thẳng vào ngọn tháp và lan can tay vị cây cầu. Thành thử, thần Siêu đặt tên cho cây cầu là Cầu Thê Húc nghĩa là cầu đón ánh sáng ban mai đậu lại.


Và những thăng trầm thời kì
qua sự tàn phá của thời gian, vào đêm giao thừa năm 1952, do lượng người tương hỗ vào lễ đền quá đông nên cây cầu không chịu nổi và đã sụp xuống. Để phục vụ nhu cầu tương hỗ lễ bái của người dân lúc bấy giờ, chính quyền Pháp đã cho dựng một chiếc cầu tạm và khẩn cấp cho xây dựng lại cây cầu bị đổ.
Theo lời kể của bà Phạm Thị Mùi, 65 tuổi, ở số 44, ngách 5, ngõ 281, đường Tam Trinh thì vào khoảng cuối năm 1953, sau khi chính quyền Pháp giao cho một người trước đó xây dựng lại cầu Thê Húc nhưng không được, họ đã đề nghị cụ thân sinh ra bà, là cụ ông Phạm Ngọc Lan khảo sát lại và phải gấp rút hoàn tất trước Tết năm 1954.
Chỉ vỏn vẹn có 3 tháng, cụ Lan đã phải gấp rút khảo sát địa chất, vẽ thiết kế và giám sát xây dựng lại cây cầu. Với thay của cả tổ thi công, cầu Thê Húc cũng kịp hoàn thành. Để ghi lại công sức của người đã có công xây cầu, chính quyền Pháp đã tặng lại gia đình cụ Lan 1 album ảnh về quá trình cây cầu được thi công. Sang chiến tranh, tao loạn, cuốn album ảnh đã phần nào bị hỏng hóc. Nhưng với những gì còn lưu lại qua những bức hình, người thời nay đều thấy được cây cầu “đón ánh ban mai” đã chuyển mình cùng thời đại ra sao. Dù qua mỗi mùa xuân hạ thu đông, “ánh ban mai” có khác nhưng cây cầu vẫn “thi gan cùng tuế nguyệt” góp phần làm đẹp thêm “viên ngọc” sáng về văn hóa của thủ đô.

0 comments:

Post a Comment

 

©Copyright 2011 Du lịch nha trang